Thứ Ba, 29 tháng 3, 2011

ĐIỀU TRỊ LIỆT 7 NGOẠI BIÊN BẰNG ĐÔNG TÂY Y

Đông y chữa liệt thần kinh số 7 ngoại biên

Đông y chữa liệt thần kinh số 7 ngoại biên
Thần kinh số 7 ngoại biên là gì?
Liệt thần kinh số 7 ngoại biên do nhiều nguyên nhân: Do nhiễm khuẩn, viêm tai giữa. Do sang chấn sau mổ. Tai biến mạch máu não, do va chạm vỡ xương đá. Do nhiễm lạnh. Bình thường trong các trường hợp liệt thần kinh số 7 ngoại biên thì có đến 80% là do nhiễm lạnh. Liệt thần kinh số 7 ngoại biên có thể xảy ra bên phải hay bên trái. Nếu liệt bên nào thì nếp nhăn trán, nếp múi má bên đó mờ. Nhân trung lệch về bên lành. Nếu ăn cơm, cơm sẽ đọng lại bên bệnh. Uống nước, nước sẽ chảy ra bên bệnh.
Lưỡi lệch về bên lành vì thế người bệnh rất khó phát âm, không huýt sáo miệng được. Khác nhau giữa thần kinh số 7 ngoại biên và trung ương là phản ứng dấu: Charleber-Bell (hiện tượng mắt nhắm không kín). Nếu là tổn thương thần kinh số 7 ngoại biên do lạnh mắt bị bệnh sẽ nhắm không kín. Ngược lại tổn thương thần kinh số 7 trung ương do tai biến mạch máu não thì miệng bị méo, mắt vẫn nhắm kín bên bị bệnh. Liệt thần kinh số 7 ngoại biên do lạnh, bệnh có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi, mọi giới tính, bất kỳ thời tiết nào, mùa hè hay mùa đông đều có thể xảy ra.
Điều trị:
Tiên lượng của bệnh tuỳ thuộc và thời gian điều trị. Điều trị càng sớm, khả năng phục hồi càng nhanh. Nếu điều trị không đúng cách hoặc không kịp thời bệnh có thể chuyển thành mãn tính. Từ 6 tháng trở lên thời gian điều trị lâu hơn. Nếu một năm thì khả năng phục hồi là rất khó. Trước đây cũng có một số phương pháp điều trị bằng cách tiêm nhóm Glucocorticoid. Ví dụ như dexametazole ngày từ 15 mg đến 20 mg. Điều trị kéo dài hàng tháng. Glucocorticoid là nhóm thuốc gây nhiều tác dụng phụ như giữ muối và nước, gây loãng xương, đục thuỷ tinh thể, tiểu đường và gan nhiễm mỡ.
Thần kinh số 7 ngoại biên do lạnh là bệnh chữa tốt, phục hồi nhanh bằng phương pháp đông y: giác hơi nóng, châm cứu.
Châm cứu: Châm huyệt giáp xa xuyên sang huyệt địa thương. Huyệt dương bạch xuyên huyệt ngư yêu. Huyệt thái dương, châm xuyên sang huyệt đồng tử liêu. Toản trúc xuyên sang huyệt tịnh minh. Quyền liêu xuyên sang huyệt đồng tử liêu.
Châm các huyệt: Thính cung, nghinh hương, ế phong bên bị bệnh và huyệt nhân trung. Châm thêm huyệt hợp cốc bên lành. Điện châm. Nếu bệnh mới mắc: Châm tả. Nếu bệnh trên 6 tháng: Châm bổ. Liệu trình mỗi ngày 1 lần.
Trước các cụ hay dùng thịt lươn dán vào vùng mặt bị bệnh, hy vọng dùng thịt lươn để kéo miệng bị méo. Ngày nay không dùng phương pháp điều trị đó. Về thuốc uống hỗ trợ, các bài thuốc cổ phương có tác dụng hành khí, hoạt huyết, khu phong, trừ thấp, tán hàn. Bài thuốc thường dùng:
Kinh phòng bại độc tán
Khương hoạt 15g, độc hoạt 15g, sài hồ 20g, tiền hồ 15g, chỉ xác 10g, xuyên khung 10g, kinh giới 20g, phòng phong 15g, bạch linh 15g, cát cánh 15g, sinh khương 3 lát, tế tân 10g. Sắc uống ngày 1 thang kết hợp chườm nóng vùng mặt bị bệnh.
Thuỷ châm: Trinauvite (H5) thuỷ châm vào các huyệt vùng mặt mỗi huyệt 0,4 ml – 0,8 ml (test) nếu bệnh nhân ngại tiêm vào mặt thì có thể tiêm vào huyệt túc tam lý hai bên.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét